Hành trình đảng viên: muộn mà chín, lặng mà sâu

Nhiều năm, ông sinh hoạt đảng tại Chi bộ Viện Nghiên cứu Văn hóa. Đến 2019, khi nghỉ hưu, ông chuyển sang Chi bộ Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây (EWLCC). 

Ở đây, ông sinh hoạt cùng nhiều đồng nghiệp tri kỷ, trong đó có PGS.TSKH. Nguyễn Ngọc Hùng (nhận huy hiệu 40 năm tuổi đảng bốn hôm trước khi qua đời ngày 14/11/2025) cùng các PGS.TS. Đào Tuấn Ảnh, Nguyễn Thị Bích Thu, và Vũ Thanh, những cái tên đồng hành với ông từ thuở thanh xuân nghiên cứu đến những năm gần đây.

Ngày ông nhận huy hiệu 30 năm tuổi đảng, ai đấy nói “đây là niềm vui muộn”.

Nhưng, với ông, có lẽ niềm vui ấy là kết tinh của cả một đời làm việc chân chính, như lời Kinh Thánh: “Quả bởi cây mà ra”.

Ngày ông nhận huy hiệu 30 năm tuổi đảng, ai đấy nói “đây là niềm vui muộn”. Nhưng, với ông, có lẽ niềm vui ấy là kết tinh của cả một đời làm việc chân chính, như lời Kinh Thánh: “Quả bởi cây mà ra” (Hoàng Trung Nguyên chụp).

Những năm tháng ở Liên Xô: được nhìn như con, được học như trò

Từ 1984–1988, ông là nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Tổng hợp Moskva danh tiếng. Nguyễn Ngọc Hùng (sau này là PGS.TSKH) học ở đây trước ông; Đào Tuấn Ảnh (về sau là PGS.TS.) gần học xong NCS lúc ông mới sang. 

Còn Nguyễn Thị Bích Thu (sau cũng trở thành PGS.TS.) sang sau ông một năm và học ở Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô.

Ấn tượng của ông về Liên Xô đầy sắc thái:

  • ông thừa nhận mình “không tiếp thu được mấy tri thức Nga”,
  • bù lại, ông gặt hái tinh thần nghiêm cẩn trong lao động khoa học,
  • và được giáo sư hướng dẫn “coi như con, cho đến cả chuyện trò ở nhà riêng”

 “Tri thức tôi học ở Nga bốn năm không nhiều bằng tri thức học được ở trường đại học Việt Nam… nhưng những năm tháng đó, tôi biết được thế nào là lao động khoa học nghiêm cẩn” (ông kể qua zalo).

 “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” (Heraclitus, triết gia Hy Lạp). Dấn thân vào sông tri thức dân gian, ông hẳn đã tắm nhiều lần, mỗi lần thêm một phát hiện mới.

Chủ biên của các công trình “kỳ vĩ thầm lặng”

Nói đến sự nghiệp của GS.TS. Nguyễn Xuân Kính, hầu như không ai không nhắc năm bộ sách lớn, phần nhiều trong số đó, ông giữ vai trò chủ biên, đồng chủ biên, hoặc chủ tịch hội đồng biên tập. 

Các bộ sách có thể được xem như “Kim cổ Kỳ thư” của ngành văn học dân gian Việt Nam hiện đại.

1. Kho tàng ca dao người Việt (1995, tái bản 2001)

Một công trình kéo dài 20 năm, tập hợp 12.487 lời ca dao, kèm dị bản, xuất xứ, phân hệ chủ đề… – một “Đại Tạng Kinh” của văn hóa dân gian. 

Bộ sách được GS.TS. Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật đồng chủ biên; mỗi trang sách là dấu vết của nhẫn nại.

Như ông từng tâm sự, ca dao là “tiếng nói thứ hai của dân tộc”, nơi lưu trú cảm xúc mộc mạc sâu thẳm của người Việt:

“Xưa nay những bạn má hồng
Thà hầu quân tử hơn chồng tiểu nhân.”
(Trích lời C909)

Những câu ca dao ấy, từ một lời đến hàng nghìn lời, được ông và đồng nghiệp bền bỉ thâu nhiếp, biên khảo, khiến chúng có “căn cước”, xuất xứ, có hệ thống.

Đó là công việc đòi hỏi nghiêm trang học thuật và cũng cần trái tim mềm của kẻ biết “nghe” tiếng nói dân gian.

2. Kho tàng tục ngữ người Việt (2002)

16.098 câu tục ngữ – dữ liệu có thể khiến không ít nghiên cứu sinh trẻ ngày nay ngỡ ngàng. Công trình lập lại kết cấu như kho tàng ca dao, nhưng đi sâu hơn vào dị bản, chú giải, nguồn gốc.

Có những câu được ghi lại trong năm cuốn sách, và giải thích trong hai cuốn; tính đa nghĩa, chồng chập nhiều tầng nghĩa như thế cho thấy tục ngữ không đơn thuần là lời khuyên, mà là kết tinh của chuỗi kinh nghiệm dân gian.
Như câu “Thuốc có cam thảo, nước có lão thần” bao hàm triết lý về kẻ trung hòa, giữ mạch sống xã hội, hình ảnh có vẻ nghiệm với ông.

3. Tổng tập văn học dân gian người Việt (19 tập)

Đây là cuộc huy động tổng lực của cả nền văn học dân gian Việt Nam, với hàng chục nhà nghiên cứu, nhưng GS.TS. Nguyễn Xuân Kính đóng vai trò Chủ tịch Hội đồng Biên tập.

Cấu trúc 12 thể loại - từ tục ngữ, giai thoại, truyện cổ tích, truyện Nôm, vè, câu đố, v.v… – thành tạo bản đồ tri thức đồ sộ, nơi mỗi tập hơn 1.000 trang.

Trong số đó, ông chịu trách nhiệm đặc biệt về tục ngữ và ca dao, hai kho tàng ông am hiểu hơn cả.

Nói đến sự nghiệp của GS.TS. Nguyễn Xuân Kính, hầu như không ai không nhắc năm bộ sách lớn, phần nhiều trong số đó, ông giữ vai trò chủ biên, đồng chủ biên, hoặc chủ tịch hội đồng biên tập (Hoàng Trung Nguyên chụp).

4. Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam (23 tập)

Công trình mang tầm vóc của một “hợp tuyển quốc gia”. Đặc biệt, mỗi tác phẩm đều có song ngữ: tiếng dân tộc và tiếng Việt - cách tôn trọng nguyên bản hiếm thấy.

Ông là Chủ tịch Hội đồng Biên tập, tham gia nhiều tập quan trọng như sử thi Xơ Đăng, truyện cười, ngụ ngôn, truyện thơ, v.v…

5. Kho tàng sử thi Tây Nguyên (107 tác phẩm, 91 quyển)

Đây là công trình khiến giới nghiên cứu quốc tế chú ý. Nó bao gồm:

  • giai đoạn dự án nhà nước (2001–2007)
  • và giai đoạn đề tài trọng điểm cấp bộ (2009–2012).

107 tác phẩm sử thi – phần lớn phiên âm, dịch nghĩa từ tiếng Ê Đê, Mơ Nông, Ba Na, Chăm, Ra Glai, Xơ Đăng – được xuất bản trong hình thức nghiêm ngặt, có chú giải, có chân dung nghệ nhân.

Trong lời tự sự với tác giả bài báo, ông thừa nhận ‘đóng góp của tôi tương đối quan trọng bên cạnh đóng góp quan trọng của… GS.TS. Ngô Đức Thịnh, PGS.TS. Đỗ Hồng Kỳ’. 

Dù thế, đây vẫn là sản phẩm của “mấy thế hệ trong nhiều thập kỷ”, trong đó mang dấu ấn đóng góp của một tư duy khiêm cung đáng ghi nhận, như cách thợ đẽo đá nói về nhà thờ Đức Bà. Nếu không có đóng góp của ông, ‘bộ sách không thể được như thế’. 

Nói cách khác, nếu bảo ông đồng chủ trì, đồng chủ biên bộ kho tàng sử thi Tây Nguyên 91 quyển, có lẽ cũng không quá.

Nhìn vào hành trình của ông, thế hệ trẻ có thể thấy tình yêu với văn hoá dân gian không phải hoài cổ. Nó là cách mỗi tha nhân tìm đường về căn nhà tinh thần của dân tộc mình. Trong thế giới thay đổi từng ngày, những ai giữ mạch nguồn này sẽ giữ độ bền cho tương lai. Những bộ sách ông để lại cùng đồng nghiệp - kho tàng ca dao, tục ngữ, sử thi - là những ngọn đèn tuổi trẻ hôm nay có thể bước theo không sợ lạc

Nhà kiến tạo tri thức, tác giả hơn 30 đầu sách và 200 bài nghiên cứu

Theo hồ sơ cập nhật năm 2025, ông đã công bố 200 bài nghiên cứu, cùng hơn 30 cuốn sách, bộ sách, trong đó có:

  • Thi pháp ca dao (1993, năm lần tái bản)
  • Con người, môi trường và văn hóa (2003, tái bản nhiều lần)
  • Người Việt trong dòng lịch sử văn hóa (2019)
  • Lịch sử văn học dân gian Việt Nam (2020), viết cùng Bùi Thiên Thai
  • Nhận thức mới về văn hóa dân gian (2022)
  • Lược sử văn học Việt Nam (đồng tác giả, tái bản 2025, dịch và in tại Đài Loan)
  • Lịch sử văn hóa Việt Nam (năm tập, chủ biên, sắp xuất bản)

Ông còn hướng dẫn và .đồng hướng dẫn 32 nghiên cứu sinh, trong đó 30 trường hợp bảo vệ luận án thành công. Nhiều trong số họ, hôm nay, trở thành nhà nghiên cứu uy tín.

Có lẽ, với ông, truyền thụ tri thức cũng là một dạng “tái tạo di sản”, như tục ngữ nói:
“Trồng cây đời đời ăn trái”.

(Mời quý độc giả đón đọc Kỳ 3)

HQD

* Nhân dịp ông nhận huy hiệu 30 năm tuổi đảng tại phường Ngọc Hà, Hà Nội (6/11/2025)