Trên hành tinh này, nụ cười, tiếng khóc và bây giờ đến cả nỗi sợ hãi nữa, cũng có thể là một. Rồi nhân loại có biết bao nhiêu chuyện phải chung nghĩ, chung lo, chung hành động mà đối phó, hay thích ứng. Tôi càng thấm thía điều ấy sau chuyến xuất ngoại một tuần mới đây hoà nhập với thanh niên các nước trong khu vực.
Fredkorpset (FK) vốn là một tổ chức tình nguyện phi chính phủ Na Uy, thành lập cách đây bốn sáu46 năm, sau rồi mới trực thuộc Bộ Ngoại giao nước này. Nó hoạt động độc lập bằng nguồn kinh phí nhà nước, để hỗ trợ chính phủ cho mục tiêu hợp tác và phát triển toàn diện đất nước. Na Uy trải dài trên bờ biển như Việt Nam, diện tích nhỏ hơn nước ta một chút (323.759 km2/ 331.700 km2). Na Uy là nước phát triển ở Bắc Âu. Tính cộng đồng toàn cầu và nhân văn của người nhân dân đất nước quân chủ lập hiến chỉ có 4,4 triệu người (1958) này thật đáng nể phục. Mong muốn xây dựng một thế giới công bằng và phát triển cho quyền sống cơ bản của con người, Na Uy coi trọng sự liên kết hợp tác với các nước đang phát triển, đặc biệt là hỗ trợ các nước nghèo nhất trong các nước nghèo, theo năm nguyên tắc:, thống nhất, trao đổi, bình đẳng, đa dạng, và minh bạch.
Hoạt động của FK gồm hai lĩnh vực chính: chương trình trao đổi và phát triển mạng lưới. Hiện FK đã có mạng lưới trên 60 nước ở ba châu lục Á, Phi và Nam Mỹ, trong đó có Việt Nam. Năm 1963, ngay khi mới thành lập, FK đã cử các tình nguyện viên sang Uganda và Iran. FK tổ chức ba chương trình trao đổi: trao đổi nam – nam (giữa các nước đang phát triển), trao đổi bắc – nam (giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển), và trao đổi giữa những người trẻ tuổithanh niên. Một bên là các tổ chức, tập đoàn, các tổ chức cộng đồng Na Uy, một bên là các nước Á, Phi và Nam Mỹ.
Lần này, chúng tôi – Diễn đàn các nhà Nhà báo môi Môi trường Việt Nam (VFEJ) được FK chỉ định làm điều phối chương trình trao đổi nam – nam với Trung Quốc và Lào. Chương trình bắt đầu bằng việc tham gia một khoá đào tạo ngắn hạn ở Thái Lan – một trong hai nước có văn phòng đại diện của FK trên toàn thế giới.
Từ mấy năm trước, VFEJ đã tham gia chương trình này. Năm 2004, chị Fawzia Nasrin, tình nguyện viên (TNV) của Diễn đàn nhà Nhà báo môi Môi trường Bangladesh đã đến làm việc tại VFEJ. Anh Mongkhou Mongkhon Vongsam Ang, TNV phóng viên tờ Thời báo Vientiane (Lào), cũng sang Hà Nội làm việc ở báo Sài Gòn Giải phóngvới VFEJ. Đổi lại, VFEJ cũng cử hai TNV sang Lào và BanglađestBangladesh. Thời gian làm việc của các TNV là 8tám tháng.
Lần này Diễn đàn nhà Nhà báo môi Môi trường Trung Quốc (CFEJ) cử hai TNV, một sang Lào và một sang Việt Nam. Lào cử một TNV sang Việt Nam. Việt Nam cử hai TNV, một sang Lào và một sang Trung Quốc. Chương trình trao đổi diễn ra trong 12 tháng. Khoá học chuẩn bị này do Viện Công nghệ Châu Á (AIT) và FK phối hợp tổ chức nhằm giúp các TNV sống và làm việc hiệu quả ở đất nước sẽ tiếp nhận mình đến làm việc.
Ba tuần tập huấn với năm đơn vị học trình là đủ hay thiếu? Nhiều hay ít? Câu trả lời phải là của các TNV sau hoặc ngay trong thời gian làm việc. Nhưng tôi thật sự ngạc nhiên khi, trong các học trình, ngoài những vấn đề chung về mục tiêu hoạt động của FK, của các TNV khi tiến hành trao đổi, những vấn đề về con người, về phát triển. rất được FK rất chú trọng. đến những nguyên lí, những đặc điểm văn hoá, tính đến cả việc xử lí cú sốc văn hoá. Họ chuẩn bị cho các TNV không chỉ những nguyên lí, những đặc điểm văn hoá, mà cả cách thức xử lí những cú sốc văn hoá, cách đối phó với đến cả tâm lí chán nản, hay e sợ hoặc cô đơn khi một mình sống ở một nước xa lạ.
thì thật là cChu đáo. Đến đến mức họ chuẩn bị cho bạn các TNV trẻ cả phương thức đối phó với những người khó tính, dạy bạn họ cách xử lí khi gặp xung đột, dặn bạn những điều cần thiết về an toàn và an ninh cá nhân, dạy bạn cách sơ cứu khi gặp nạn.… thì đến các Các bà mẹ Hà Nội dạy con gái khi đi làm dâu có lẽ cũng không kỹ càng hơn được.
Một vài những trò chơi tôi kể trên chính là những bài học vỡ lòng về lí thuyết làm việc theo nhóm của mỗi người trong cộng đồng. Còn nhiềuVài trò chơi khác làm cho mọi người làm quen với nhau. Và những bài giảng lý thuyết nữa chứ.
Một đời làm công chức, tôi không thể đếm được đã dự bao nhiêu lớp tập huấn. Thú thật, không còn nhớ được gì. Trong ký ức tôi, chỉ còn đọng lại những gì nghiêm trang và nghiêm túc, nặng nề và khô cứng. Chưa bao giờ, chưa một ai được cười hay cười được trong các lớp tập huấn ấy vì toàn những chuyện to tát, quan trọng và nghiêm trọng. Nhưng thực tế là chẳng biết để làm gì.
Vòng tròn lớn
Bây giờ, mấy chục người quây thành một vòng tròn lớn. Hai quả bóng tenít tenis được người này chuyền cho người bên cạnh. Một vòng, hết 30 giây. Lần thứ hai, đứng sát nhau hơn, chu vi thu hẹp lại, không phải mỗi tay đón một quả mà là hai bàn tay khép lại hứng hai trái bóng người kia đổ vào. Hết 27 giây.
Lần thứ 3 ba, mọi người xếp thành hai vòng tròn đồng tâm. Hai vòng người quay mặt vào nhau. Bóng vẫn qua tay tất cả mọi người, nhưng thời gian lại rút được mấy giây nữa. Kết luận rút ra là, con người luôn luôn phải rút kinh nghiệm, phải cải tiến. Quỹ thời gian của mỗi người như miếng da lừa Ban ZắcBalzac mỗi ngày một co lại. Sử dụng thời gian là vấn đề của trí tuệ, là kỹ thuật, nghệ thuật.
Sau đó học viên chia làm hai nửa. Nửa kia là các TNV theo một chương trình. , cChúng tôi, lãnh đạo của các đoàn đến từ các nước khác nhau, những ngườiđược điều phối theo một chương trình khác. Giảng viên của chúng tôi là một phụ nữ Philippines cổ ngắn, mình ngắn, chân ngắn. Ngắn đến mức bà đứng mà chỉ bằng các học viên ngồi. Nhưng hình như bà không hề mặc cảm về điều đó. Phụ nữ có thể đi giày, dép cao trên dưới mười phân để tăng chiều cao cơ mà. Tổng thống Pháp có thấp lắm đâu mà cũng thửa giày để cao thêm dăm bảy phân nữa. Tôi nhìn xuống đôi dép rọ giản dị dưới chân bà. Nó mỏng dính như đôi dép mo cau của các bà nông dân Việt Nam nghèo ngày xưa vậy. Cái gì cũng ngắn, chỉ trí tuệ là dài. Có lẽ bà tự biết như thế. Giọng Tiếng Anh của bà khúc triết mạch lạclàu làu. Sự tự tin thể hiện rõ trên gương mặt đầy đặn phúc hậu như một bà mẹ Việt Nam đã có tuổi.
Trong lớp chỉ có hai người là tôi và một người nữa không hiểu bà nói gì. Người kia ngồi như chúa Tầu nghe kèn và tôi – chỉ hiểu lõm bõm qua cô thông dịch viên ngồi bên. Lõm bõm thôi, bởi chính người dịch cũng chỉ hiểu lõm bõm. Hai lõm bõm thì bằng một bập bõm rồi còn gì. Tôi tự chán mình, một chữ tiếng Anh bẻ đôi không biết. Ngày nào còn dạy học ở một tỉnh lẻ, cũng đã tự học quốc tế ngữ ESpérantoEspéranto. Nhưng rồi cũng bỏ só xó vì chẳng ai dùng, để bây giờ… như kẻ mất sổ gạo!
Vì không hiểu gì nên tôi cho phép mình quan sát bà và những người khác, đại đa số tuổi dưới 35. Họ hẳn đều biết tiếng Anh, nên nét mặt tỏ ra rất chăm chú. Mắt cứ sáng lên như nuốt từng lời, chứng tỏ họ rất hiểu điều bà nói. Đã nNhiều lần bài giảng của bà làm các học viên cười. Cười hết cỡ, cười thích thú bởi khoái cảm trí tuệ. Nhìn ai cười cũng đẹp, cũng đáng yêu, cũng gần gũi thân thiết.
Tiếng cười xoá nhoà khác biệt tất cả. Tiếng cười bản thân nó mang thông điệp hoà bình và hội nhập. Không hiểu chính xác lí do các bạn mười một11 nước đang cười, nhưng tôi hiểu ý nghĩa những tiếng cười ấy. Tôi càng cảm phục người phụ nữ lùn tịt có chồng là người Inđônesia Indonesia và hai đứa con đã làm nên điều kì diệu để mọi người đều gặp nhau trong tiếng cười hoà hiếu, hoà hợp, hoà đồng.
Nhân loại học
Chưa bao giờ tôi chứng kiến một lớp tập huấn vui như thế. Chưa bao giờ tôi ngồi cùng lúc với các bạn mang nhiều quốc tịch đến thế. Chợt xót thương cho chính mình bởi sự ấu trĩ kém cỏi đầu đời. Khi ấy, tôi chỉ biết đủ các thuộc tính của văn chương, trừ thuộc tính quan trọng nhất làm nên giá trị nhân loại – nhân tính. Mặc dầu vẫn thuộc lòng câu ông cha ta vẫn dạy – một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Mãi gần đây mới biết thế giới người ta có hẳn một môn khoa học gọi là nhân loại học.
Đêm trước ngày chia tay về nước, chúng tôi quây quần bên mấy chai bia, một chai coca cola. Tôi bảo các bạn Lào là, rất ngạc nhiên khi thấy cờ Đảng của Lào vẫn là cờ búa liềm của Đảng Cộng sản Đông Dương một thời. Rằng tôi rất khoái khi sang đấy, thấy nước bạn nhất thể hoá đúng như trong tiểu thuyết Lửa đắng Đắng của tôi – Bí thư Đảng và Chủ chủ tịch chính quyền là một. Tôi khoe rằng, Chủ tịch Xaysomphone SouvannavongSuva Nuvông và Tổng bí thư Cay Xỏm Nôm vi hẳnCayxon Phonevilan từng là học sinh trường Bưởi mà có thời kỳ tôi làm công tác quản lí ở đây. Anh Manichanh, trưởng ban kinh tế tờ thời Thời báo Viên ChănVientiane của Lào xuất bản bằng tiếng Anh thì kể rằng đã cùng các bạn qua cửa khẩu cầu treo Hà Tĩnh sang Cửa Lò tắm biển.
Tôi nâng bàn tay anh bạn trẻ Sirilanca Sri Lanka lên ngắm. Lòng bàn tay anh trắng bệch, nhưng mu bàn tay đen nhẻm. Anh buộc chỉ cổ tay, với ý nghĩa là lời cầu chúc may mắn. Anh bảo cái này Chúa buộc cho, cái này Phật buộc cho, còn cái này bạn buộc cho. Dây vòng vàng đeo tay là bằng tiền lương tháng đầu tiên. Dây vòng vàng đeo cổ để đeo tên dòng họ.
Tôi kể, xưa Việt Nam cũng có tục buộc chỉ cổ tay, nhưng là để trai gái nhắc nhở nhau giữ lời hẹn ước. Tôi cũng đã từng được bà con một bản người Lào hì hục cả buổi chiều làm bánh nếp và trang trí mâm hoa bốn tầng dùng trong lễ buộc chỉ cổ tay cho tôi. Câu chuyện thân mật như quen biết từ lâu. Anh bạn Myanmar ngồi bên làm tôi nhớ đến một người Diến Điện (sau gọi là Miến Điện, giờ là Myanmar) từng là Tổng thư ký Liên Hợp quốcQuốc. Đấy là người châu Á đầu tiên giữ cương vị ấy. Mấy chục năm sau, giờ đến ông Ban kimoon Ki-moon (Hàn Quốc) là người thứ hai.
Anh bạn trẻ bảo có nghe nói như thế, nhưng không nhớ tên. Tôi nhắc, đấy là ông Uthan và hỏi, sao ông ấy mặc váy (quấn SarôngSarong) mà anh không quấn như anh bạn Srilanca Sri Lanka này? . Anh bảo có mang đi, nhưng vào một dịp nào đấy trang trọng mới mặc. Nhờ không khí thân mật nên tôi đánh bạo hỏi, đàn ông Scotlen xử Ê Cốt (Scotland) cũng mặc váy ngắn, tôi nghe, có tờ báo nói ở trong họ không mặc gì…. Thế… các anh có mặc gì bên trong không? Mấy cô Việt Nam đỏ mặt. Tôi phải ép mới dịch, các anh ấy bảo có khi có, có khi không. – Khi nào có, khi nào không? Cả đám cười ầm ĩ. Không biết anh trả lời thế nào, mấy cô nhất định không chịu dịch, vì vấn đề nhạy cảm mà!
Thế đấy, c. Chỉ nói chuyện ăn, chuyện mặc cũng thấy tính nhân loại của mỗi dân tộc. Ai chả phải đưa thức ăn vào miệng. Tôi với các bạn Trung Quốc kia thì dùng đũa. Các bạn Lào, Ấn Độ này thì dùng tay. Có sao đâu. Vẫn cứ sống tốt. Để che phần dưới cơ thể, chỉ có hai lựa chọn, quần một ống (váy) và quần hai ống. Bây giờ nước nào cũng đồng thời dùng cả hai hình thức ấy. Tính nhân loại vẫn là mẫu số chung của loài người. Sự khác biệt chỉ là tử số rất nhỏ, thuộc về đặc điểm văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán, v.v… Nhưng dù khác nhau thế nào cũng vẫn tìm ra tiếng nói chung. Mục đích hoạt động trao đổi của FK chính là để tìm hiểu nhau, trao đổi, học hỏi nhau…, đặng cùng nhau phát triển.
Trước kia tôi chỉ hiểu khoan dung là rộng lượng, bao dung, tha thứ, kiểu đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại. Đến khi biết đến định nghĩa của Liên Hợp quốc Quốc về Năm quốc tế khoan dung mới biết đến tầm văn hoá rất cao của khái niệm này. Khoan dung là hãy chấp nhận sự khác nhau của người khác, kể cả tôn giáo, sắc tộc, chính kiến. FK và AIT đang dạy tôi những bài học về sự khoan dung để hội nhập thế giới. Trong một điều tra xã hội ngắn ở khoá học, giảng viên hỏi các TNV “B, bạn lo sợ nhất điều gì?” Không phải chỉ các bạn Ấn Độ vừa phải chịu một trận khủng bố kinh hoàng thế giới ở Mum bai, mà nhiều TNV đều trả lời “K: nạn khủng bố”.
Thế đấy, trên hành tinh này, nụ cười, tiếng khóc và bây giờ đến cả nỗi sợ hãi nữa, cũng có thể là một. Rồi nhân loại có biết bao nhiêu chuyện phải chung nghĩ, chung lo, chung hành động mà đối phó, hay thích ứng như với biến đổi khí hậu toàn cầu vừa là vấn đề đầu tiên, vừa là trước mắt vừa là lâu dài của Diễn đàn Nhà báo môi trường châu Á - Thái Bình Dương trong đó có VFEJ.
NBS
Box 1
Một đời làm công chức, tôi không thể đếm được đã dự bao nhiêu lớp tập huấn. Thú thật, không còn nhớ được gì. Trong ký ức tôi chỉ còn đọng lại những gì nghiêm trang và nghiêm túc, nặng nề và khô cứng. Chưa bao giờ, chưa một ai được cười hay cười được trong các lớp tập huấn ấy vì toàn những chuyện to tát, quan trọng và nghiêm trọng. Nhưng thực tế là chẳng biết để làm gì.
Box 2
Trước kia tôi chỉ hiểu khoan dung là rộng lượng, bao dung, tha thứ, kiểu đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại. Đến khi biết đến định nghĩa của Liên Hợp Quốc về Năm quốc tế khoan dung mới biết đến tầm văn hoá rất cao của khái niệm này.