Một phân tích mới công bố hơn 14.000 nghiên cứu tâm lý học trong 20 năm cho thấy độ nổi tiếng trên truyền thông của nghiên cứu có liên hệ tiêu cực đến khả năng tái kiểm nghiệm (được hiểu là tái tạo nghiên cứu, lặp lại nghiên cứu, lặp lại thí nghiệm của nghiên cứu đã qua) của nó.
CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH
● Các nhà nghiên cứu đã chạy một mô hình học máy phân tích văn bản trên hơn 14.000 bài báo tâm lý học xuất bản trên các tạp chí hàng đầu từ năm 2000 đến 2019, để đánh giá khả năng kiểm nghiệm của mỗi nghiên cứu đã đăng báo.
● Họ nhận thấy rằng các bài báo được trích dẫn tần suất cao không có nhiều khả năng được tái kiểm nghiệm. Họ cũng thấy rằng các bài báo nhận được nhiều chú ý của truyền thông hơn ít có khả năng có thể tái kiểm nghiệm hơn.
● Có một số tin tốt từ nghiên cứu. Từ năm 2010 đến 2019, các bằng chứng xác nhận mức độ tái kiểm nghiệm có xu hướng tăng, cho thấy tâm lý học là lĩnh vực có thể đang ngày càng trở nên khắt khe (nghiêm ngặt) hơn.
Đầu thế kỷ 21, tâm lý học bắt đầu có dấu hiệu vượt tầm kiểm soát. Các nghiên cứu thực hiện trên các nhóm nhỏ sinh viên đại học ngày càng phổ biến và ngày càng được sử dụng để giải thích mọi khía cạnh của hành vi người. Các phát hiện của họ tràn vào (thẩm thấu vào hàng loạt điễn đàn học thuật như) diễn thuyết của các diễn giả có động cơ, các cuốn sách tự biên tự diễn nhạt nhẽo, và các bài đăng tạp chí hớt váng, biến nhiều người thành các nhà tâm lý học ghế bành (hoặc họ nghĩ vậy) khét tiếng.

| Tái kiểm nghiệm là nghiên cứu mà bất kỳ kết quả nào cũng được coi như bằng chứng chẩn đoán về một nhận định từ nghiên cứu trước đó (Nosek & Errington, 2020). |
Khủng hoảng tái kiểm nghiệm trong tâm lý học
Nhưng đầu những năm 2010, bong bóng đã vỡ. Khi các nhà khoa học cố gắng tái kiểm nghiệm nghiên cứu trước đó bằng cách tiến hành lại các thực nghiệm dựa trên các phương pháp nghiêm ngặt và các chủ thể mới (những người thực hiện các thử nghiệm lặp lại, hay các thử nghiệm tương tự), họ nhìn chung đều không thành công. Trong khoảng nửa số thực nghiệm lặp lại, các phát hiện hào nhoáng (trước đấy) đã biến mất. Ngay cả các hiện tượng (phát hiện) được thừa nhận rộng rãi, kiểu như (trở thành) mồi xã hội (social priming) và (đạt trình độ có thể) “áp đặt quyền lực” (power posing) (trong giới nghiên cứu cũng như dư luận xã hội nói chung) cũng không tránh khỏi bị lật tẩy. Thời hoàng kim của tâm lý học đã biến thành “khủng hoảng về tái kiểm nghiệm”.

Các nhà tâm lý học đang bắt đầu học hỏi từ sai lầm của họ, sử dụng các nhóm mẫu lớn hơn, đa dạng hơn, đồng thời công bố trước các phương pháp thực nghiệm và bám sát chúng, và tuân thủ các phân tích thống kê chặt chẽ hơn. Như vậy (bằng cách ấy) lĩnh vực này mới có thể lấy lại uy tín đã mất.
Trong khi đó, bộ ba nhà nghiên cứu, Wu Youyou, Yang Yang và Brian Uzzi lần lượt đến từ Đại học Cao đẳng London, Đại học Notre Dame và Đại học Northwestern, đã sáng tạotạo ra và kiểm chứng một mô hình học máy để đánh giá khả năng tái kiểm nghiệm của nghiên cứu tâm lý học, đơn giản bằng cách quét các văn bản bài báo nghiên cứu. Sau đó, họ chạy mô hình của mình trên hơn 14.000 bài báo xuất bản trên sáu tạp chí tâm lý học hàng đầu từ năm 2000 đến năm 2019. Với lượng dữ liệu dồi dào này, họ khám phá liên hệ giữa khả năng tái kiểm nghiệm của bài báo với các yếu tố như lịch sử trích dẫn của tác giả (tần suất bài báo của họ được trích dẫn bởi nhà nghiên cứu khác), uy tín của tổ chức đứng đằng sau nghiên cứu, trọng tâm của nghiên cứu và độ phủ sóng trên truyền thông của bài báo. Kết quả của họ được công bố trên PNAS.
Không phải mọi nghiên cứu tâm lý đều ngang nhau
Đầu tiên, họ phát hiện rằng nghiên cứu tập trung vào nhân cách (nhân tính) có khả năng tái kiểm nghiệm cao nhất, khoảng 55%, trong khi nghiên cứu về tâm lý học phát triển (kiểm tra thay đổi hành vi trong đời người) có ít khả năng tái kiểm nghiệm nhất với 36%. Các bài báo khoa học trong lĩnh vực tâm lý xã hội nổi tiếng một thời (khám phá các tương tác người) chỉ có 37% khả năng tái kiểm nghiệm.

“Giải thích cho kết quả này là tâm lý học phát triển tập trung vào trẻ em và các tiến trình cuộc đời, hai lĩnh vực các nhà nghiên cứu đối mặt với các khó khăn hy hữu khi thu thập các mẫu lớn trong các bối cảnh có thể kiểm soát được,” các tác giả nhận xét. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện rằng các bài báo của các tác giả danh tiếng hơn có nhiều khả năng tái kiểm nghiệm hơn, trong khi các bài báo ít được trích dẫn hầu như không tái kiểm nghiệm được.
Thú vị hơn cả, họ phát hiện ra rằng các bài báo nhận được nhiều chú ý của truyền thông hơn ít có khả năng tái kiểm nghiệm hơn. Các hãng tin có xu hướng khai thác các phát hiện bắt mắt và phản trực giác. Mặc dù các kết quả đáng ngạc nhiên đôi khi làm đảo lộn khoa học chính thống và thậm chí có thể đi ngược hiểu biết thông thường, chúng ít có khả năng tái kiểm nghiệm được. “Sẽ có giá trị nếu các phương tiện truyền thông lưu ý độc giả rằng các kết quả khoa học mới và lạ chỉ là thức ăn cho tư tưởng trước khi nghiên cứu tái kiểm nghiệm trong tương lai khẳng định tầm ảnh hưởng của chúng,” các tác giả lưu ý.
Có một số tin tốt từ nghiên cứu mới. Từ năm 2010 đến 2019, các bằng chứng cho thấy mức độ tái kiểm nghiệm trung bình tăng, một dấu hiệu đầy hy vọng cho thấy tâm lý học có thể đang bắt đầu vượt qua cuộc khủng hoảng tái kiểm nghiệm của nó.