1. Làm quen với người … rất biết!
Đang ngán ngẩm trong vai Phó hiệu trưởng trường cấp 3 Chu Văn An (Hà Nội), hai nhiệm kỳ nên nói thật với một Phó Giám đốc Sở Giáo dục: “Em phục vụ nốt kỳ thi tốt nghiệp phổ thông này thôi, về trường cũ làm giáo viên đấy nhớ!” - “Làm giáo viên là thế nào?”. Vốn là người thích đùa, cố tình không hiểu: “Nếu không làm được giáo viên thì làm giáo hai viên vậy!”.
Vào thời điểm ấy, nhà nước mới ban hành hai bộ luật mới là Xuất bản và Báo chí. Theo nghị định thì Sở Văn hóa Thông tin (VHTT) tỉnh, thành phố (trực thuộc Trung ương) là cơ quan giúp tỉnh, thành phố thực hiện quyền quản lí nhà nước trên địa giới hành chính. Thế nên phải thành lập phòng quản lí Báo chí Xuất bản.
Nhạc sĩ Vĩnh Cát đang loay hoay tìm người thì chị Kiều Duyên - vợ (Phó Trưởng phòng Kế hoạch Tài chính Sở Giáo dục, rất quen biết tôi) mách nước: “Sao anh không mời anh Bắc Sơn, đảng viên, viết nhiều báo, em vẫn đọc mà!”. Trước đó một cơ quan vốn chỉ đạo hai ngành này đã giới thiệu một người sang. Không hiểu sao, ông không đồng ý. Làm Phó trưởng phòng thì được, chứ trưởng thì… Vợ lại thêm: “Anh ấy cũng là đoàn viên Thiếu nhi Nghệ thuật (TNNT) Lưu Hữu Phước mà!” “Sao TNNT mà anh không biết nhỉ?”
Không biết thật, vì sau đợt biểu diễn Mừng thọ Bác Hồ, đoàn tạm thời giải thể. Đến khi tái lập, cả ba anh em Vĩnh Long, Vĩnh Cát, Vĩnh Bảo đều không quay lại, đi học tiếp. Khi tái lập, Bắc Sơn mới theo anh trai gia nhập nên không biết là phải. Khi Giám Đốc (GĐ) mời đến làm quen, lại gặp anh Nguyễn Đức Hiền đang làm Hiệu trưởng cấp 3 Việt Nam - Ba Lan (Hà Nội) đã tham gia cả hai giai đoạn. Thế là xong!
2. Đoàn TNNT do Bác Hồ đặt tên, Lưu Hữu Phước phụ trách.
Từ bé đã được thân phụ dạy mandolin. Sau ngày độc lập, cụ được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Nha Thể thao - Thể dục nhưng hy sinh trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhì. Thân mẫu dắt díu một đàn con 7 người chạy tản cư ra vùng kháng chiến Phú Thọ.
Nhạc sĩ kỳ tài Lưu Hữu Phước (1921-1989), quê ở Cần Thơ, bạn tri kỷ với nhạc sĩ kỳ tài Trần Văn Khê (1921-2018) quê ở Mỹ Tho. Bạn đồng tuế, cũng được gia đình cho ra Hà Nội học Đại học Y. Nhưng cả hai cùng bỏ Y, rẽ sang âm nhạc. (Trong bài này, không có điều kiện nói về Trần Văn Khê (xin xem Đoàn TNNT do Bác Hồ đặt tên. Nguyễn Bắc Sơn, NXB QĐND, 2020).
Sau ngày lập Quốc, Lưu Hữu Phước được giao nhiệm vụ thành lập Trung ương nhạc viện. Nhưng kháng chiến nổ ra sớm. Đành gác lại. Ông lên Phú Thọ, gặp mấy em người Thái giỏi hát múa con em cán bộ chạy tản cư về. Nhiều em con em Hà Nội theo gia đình tản cư ra Phú Thọ. Thế là nảy ra ý định lập đoàn Nhạc kịch thiếu nhi. Ba anh em ruột Vĩnh Long, Vĩnh Cát, Vĩnh Bảo; Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Vĩnh Thái (anh ruột tôi)… gia nhập đoàn.
Không có chế độ gì. Phải tự cung tự cấp: trồng sắn, rau muống, nuôi bò, dê, gà… sống như đơn vị bộ đội thời chiến. Các anh lớn Nguyễn Đình Tích, La Thăng, Trần Tất Toại… đã thạo nhiều nhạc cụ. Các bạn nhỏ vừa học văn hóa, vừa học ký, xướng âm và tập nhạc cụ. Đoàn có một người tài, đạo diễn giỏi, biên đạo giỏi, vốn là bạn thân của Lưu Hữu Phước. Có thể biến tất cả các ca khúc thành các điệu múa cho các em vừa hát vừa múa, có đàn đệm theo. Các tiết mục đều vui tươi, hồn nhiên, tươi trẻ. Được tiết mục nào biểu diễn tiết mục ấy, cho nhân dân, cán bộ, bộ đội trong vùng xem và nhận lại những tiếng vỗ tay hoan hô cổ vũ và đồ ủng hộ. Đi biểu diễn từ Phú Thọ, lên Yên Bái, Bắc Kạn. Hôm trước biểu diễn ở thị xã Bắc Kạn thì hôm sau Pháp nhảy dù hòng vồ, nhưng vồ hụt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.
Thấy các em biểu diễn đạt quá, không biết ai đặt câu hỏi nghi ngờ về khả năng nên đã có một cuộc thử thách tại chỗ để thử tài. Mấy em tham gia. Vĩnh Cát sáng tác 3 ca khúc nhỏ: “Nhớ Bác Hồ”, “Việt Bắc” , “Gửi bạn Thủ đô” (được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam). Sau đó Bác đặt tên cho Đoàn là TNNT. Thành tựu lớn nhất là đi biểu diễn ở khắp ATK (Cao-Bắc-Lạng, Hà-Tuyên-Thái) mà đỉnh cao là đêm biểu diễn Mừng thọ Bác Hồ 60 tuổi, Chính phủ, Bộ Tổng Tham mưu mà Vĩnh Bảo, Vĩnh Cát, Đức Hiền, Việt Chiến (Vĩnh Thái)… cùng có mặt, quây quần bên Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong mấy tấm ảnh lịch sử.
Sau khi sang Khu học xá Trung ương (Nam Ninh, Trung Quốc) học xong, về nước dạy, làm Hiệu trưởng trường tiểu học. Song, những hạt mầm Lưu Hữu Phước gieo vào tâm hồn Vĩnh Cát, Vĩnh Bảo cứ lớn dần lên, chờ thời cơ. Nghe trường Âm nhạc tuyển sinh liền đi thi. Nhờ học xuất sắc nên anh được giữ lại làm giảng viên môn Lí luận sáng tác. Rồi được cử sang Liên Xô học Đại học sáng tác. Về nước, lập tức được làm giảng viên khoa sáng tác, rồi Chủ nhiệm khoa Lí luận-sáng tác-chỉ huy. Năm 1976 làm Phó Hiệu trưởng, được phong hàm Phó Giáo sư Âm nhạc. Rồi Phó giám đốc, Bí thư Đảng ủy trường. Trong thời gian ấy, ông đã trực tiếp đào tạo được nhiều sinh viên sau này trở thành những nhạc sĩ tên tuổi, tài năng như: Thuận Yến, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Đặng Hữu Phúc, Trọng Đài, Trương Ngọc Ninh…
3. Tài năng nở rộ.
* Có năng khiếu bẩm sinh. Trong mấy năm sống trong Đoàn TNNT, được người thầy đầu tiên Lưu Hữu Phước gieo mầm âm nhạc. Được học hành bài bản, cái mầm âm nhạc ấy cứ thế ra hoa kết trái. Ông có hàng trăm ca khúc phục vụ kịp thời cuộc chống Mỹ cứu nước. Nhưng ấn tượng sâu nặng nhất trong công chúng, còn lại mãi với thời gian, với người Hưng Yên là “Vườn nhãn quê hương”. Với người Sapa và du khách đến với trấn nghỉ mát nổi tiếng này là “Sapa thành phố trong sương”. Với người Hà Nội và cả nước là “Ngôi sao Hà Nội”.
Chủ đề rõ mười mươi là một tình yêu tha thiết đắm đuối của tác giả và người với Hà Nội. Nhưng qua giọng ca đằm thắm ngọt ngào, trong trẻo, cao vút, sâu lắng của ca sĩ Thanh Lan, người nghe lại thấy tình yêu đôi lứa, của muôn vàn cặp đôi đang mặn nồng tay trong tay “chỉ là ngôi sao không tên để gần nhau suốt đời! Để gần nhau suốt đời”.
* Hiển nhiên, không phải nhạc sĩ nào cũng sáng tác được cả thanh nhạc và khí nhạc. Vĩnh Cát thành công ở cả hai loại. Bản khí nhạc đầu tiên cho piano là “Tiếng võng ru” (1958). Rất nhiều bản khí nhạc khác dành cho cả song tấu, tam tấu, ngũ tấu dành cho piano, violon, viola, vilocelo; cho nhiều loại kèn Tây; cho nhiều nhạc cụ dân tộc: sáo, nhị, đàn bầu, đàn nguyệt như: Tuổi xuân, Se chỉ luồn kim, Rừng xuân Tây Nguyên, Ngẫu hứng 1, 2, 3; Tiếng rao đêm, Mưa đêm phố cổ, Gió mùa đông….
* Lại phải nói điều này, rất ít, thậm chí là hiếm có nhạc sĩ nào sáng tác được giao hưởng. Ở Việt Nam, có thể đếm trên đầu ngón tay… Vĩnh Cát đã thành công trong sáng tác giao hưởng. Không phải là một hai bản, mà là nhiều bản. Một điều nữa cũng cần khẳng định: Ông là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên soạn thành công bản giao hưởng với Tổ khúc giao hưởng và thanh nhạc kịch múa “Hái hoa dâng Bác” (viết năm 1960 lúc mới 26 tuổi!). Có thể coi là một hiện tượng trong giới âm nhạc Việt Nam. Công diễn lần đầu tại Nhà hát Nhân dân. Nay là địa điểm của Cung Văn hóa Hữu Nghị. Càng vinh dự tự hào hơn được biểu diễn trong vườn hoa Phủ Chủ tịch mừng sinh nhật Bác 70 tuổi!
Không dừng lại ở thành công đó, Vĩnh Cát tiếp tục soạn giao hưởng Tuổi trẻ anh hùng. Rồi “Bản giao hưởng số 1”. “Cuộc đối đầu lịch sử”, “Ngàn năm khoảnh khắc”, “Ngày vui”. Đã làm Giám đốc Sở VHTT Hà Nội, bên cạnh công việc bề bộn cho ngành mình với Lễ hội 900 và 1000 năm Thăng Long, Vĩnh Cát vẫn say mê lao vào soạn giao hưởng “Không chỉ là huyền thoại”. Tác phẩm này được công diễn tại Nhà Hát lớn (Hà Nội) năm 2002. Đấy là lần đầu tiên bản giao hưởng của nhạc sĩ Việt Nam được biểu diễn ở đây.
4. Giám đốc Sở VHTT (Hà Nội) - đỉnh cao tài năng quản trị.
Được ngồi vào ghế này, ghế kia. Có người là may hơn khôn. Có người là khôn hơn may. Ông không ở cả hai trường hợp ấy. Thậm chí, với những gì đã làm được, trong thâm tâm ông muốn đi xa hơn trong sự nghiệp sáng tác. Nhưng công việc cần nên người ta “cẩu” ông từ Học viện Âm nhạc về làm Phó giám đốc Sở VHTT Hà Nội (năm 1984). Năm 1986 được bầu vào Thành ủy (2 khóa, được cử làm đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII). Năm 1997 làm Giám đốc (GĐ).
Đã nắm được bộ máy điều hành Sở nên việc đầu tiên GĐ làm là công tác nghiên cứu khoa học vật thể và phi vật thể. Ông cho thành lập “Ban nghiên cứu khoa học” (GĐ kiêm trưởng ban). Cùng mọi người tìm kiếm xây dựng đề tài nghiên cứu, tổ chức hội thảo. Kết luận được sẽ tiến hành triển khai. Ví dụ hệ thống bia tiến sĩ, cứ để mặc cho thời gian, nắng mưa gậm nhấm à? Có nên làm nhà bia không? Làm thế nào? Phải mời hội thảo. Bãi đất trống phía đường Nguyễn Thái Học cứ để hoang hóa thế sao? Nếu làm nhà Thái học thì làm thế nào? Phải mời các nhà nghiên cứu lịch sử, các nhà kiến trúc đến tư vấn, hội thảo… Bây giờ khách vào tham quan, tưởng như xưa nay đã như thế rồi. Không phải!
+ Việc củng cố, nâng cấp các đơn vị nghệ thuật thành các Nhà hát kịch Hà Nội, Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long, Nhà hát múa rối nước Thăng Long…. Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Hà Nội v.v… Thời GĐ Vĩnh Cát mới có. Trung tâm Văn khóa khoa học Văn Miếu- Quốc Tử Giám lúc ấy mới thành lập (thời gian GĐ kiêm GĐ Trung tâm). Tham gia biên soạn Bách khoa từ điển Hà Nội (cá nhân GĐ).
+ Tham mưu với thành phố xin Bộ Quốc phòng giao lại một phần Hoàng Thành Thăng Long. Nhờ thế một phần, nơi có nhiều di tích lịch sử thời các triều vua, nhất là di tích lịch sử đương đại thời Hồ Chí Minh giờ mới được đón du khách và trở thành nơi tổ chức nhiều sự kiện văn hóa lớn.
+ Tham mưu với thành phố không phá hết nhà tù Hỏa Lò làm khách sạn giờ cũng là nơi du khách cả trong nước và quốc tế tham quan.
+ Đề xuất chương trình hoạt động tiến tới kỉ niệm 900 năm - 1000 năm Thăng Long và tổ chức khá thành công phần việc của ngành vào năm 2000 và 2010.
+ Về lĩnh vực báo chí, xuất bản thì khó ai quên được 3 vụ việc nổi bật: Thứ nhất, vụ Báo chí Bộ có văn bản yêu cầu các Sở THU HỒI ăng ten parapon không phép. Cả nước thực hiện - trừ Hà Nội.
Thứ trưởng dẫn một đoàn về làm việc có Chánh Văn phòng, Chánh Thanh tra, Cục trưởng Cục Xuất bản, Vụ trưởng Vụ Báo chí. Sở có ông, tôi và chánh văn phòng (làm thư ký). Ông xin phép Thứ trưởng, ủy quyền cho tôi trình bày. Tôi thưa:
- Công văn của Bộ chỉ là văn bản của cấp trên chỉ đạo cấp dưới thực hiện không phải là văn bản quy phạm pháp luật để thông báo cho công chúng biết thực hiện. Parapon là hàng xách tay, bán tự do trên thị trường. Chúng ta không phát ra nên không có lí gì thu hồi! Cũng không thể tịch thu vì không phải là hàng quốc cấm. Vả lại, nhìn ra thế giới đang sử dụng intenet thì dân dùng vô tư! Giải pháp của chúng tôi là niêm phong lại (vì không có giấy phép sử dụng) dù biết rằng, mình đi họ sẽ dùng lại.
Cả đoàn chết lặng vì nghe cãi… có lí! Trưởng đoàn không bảo Sở đúng mà nói: Về việc này Sở VHTT Hà Nội làm CÓ SUY NGHĨ, CÓ BÀI BẢN.
Thứ hai. Toàn quốc thực hiện theo Nghị định Chính phủ về BIỂN HIỆU - trừ Hà Nội. Lần này, đích thân Bộ trưởng xuống làm việc. Không đi với bất kỳ ai.
Hoàn toàn tin quân mình. Giám đốc:
- Xin phép Bộ trưởng, tôi ủy quyền cho anh Bắc Sơn báo cáo trực tiếp với Bộ trưởng ạ!
Đã bày trên bàn một loạt ảnh chụp các biển hiệu trong thành phố có sai theo nghị định, nhưng không sai theo thông lệ quốc tế rồi trình bày ý kiến mình. Thấy không thể bác được lập luận của tôi, Bộ trưởng quay sang tôi nói gọn lỏn một câu, cũng là kết thúc buổi làm việc chỉ có 3 người:
- Nhưng Thủ tướng đã ký rồi anh ạ!
Tiễn Bộ trưởng đến tận cửa xe, lên gác ông bảo:
- Bộ trưởng đã nói thế rồi. Thôi, thế nhé!
- Thưa anh, mình là Hà Nội, là Thủ đô. Bao nhiêu tổ chức Quốc tế. Vô cùng nhiều hãng lớn của nước ngoài, bao nhiêu sứ quán… Nếu thực hiện, người ta sẽ cười cho thối mũi. Em đề nghị, ta làm công văn giúp Ủy ban, nên anh ký nháy thôi, để Ủy ban ký đại - gửi Bộ ạ!
Nếu không tự tin, không tin cấp dưới, không có khả năng phân tích, minh định giỏi thì không thể nào đồng ý với việc làm có một không hai này.
Kết quả là: Thủ tướng Chính phủ phải có văn bản, bên cạnh cái quy định sai là biển hiệu chỉ thêm vào 3 tiếng TRỪ TÊN RIÊNG. (Tiếc rằng, thời ấy intenét chưa vào nên giờ không tìm Google được).
+ Việc thứ 3.
Cựu quân nhân, Đại tá Phạm Quế Dương, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Lịch sử Quân sự xin phép họp báo để công bố cuốn sách của 1 NXB, có một nhóm tác giả nghiêm túc. Vậy là cá nhân xin. Luật Báo chí cho phép. Đơn đề ngày 16/6/1997, sẽ họp tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám (một địa điểm vô cùng nhạy cảm vì khách quốc tế nhiều) vào 13/7/1997. Người viết đơn không xuất hiện mà nhờ người mang đến lúc gần hết giờ làm việc ngày 25/6/1997. Nghĩa là ông ta nắm chắc Luật Báo chí (LBC). Bởi cái dở của văn bản trong LBC ghi “công dân phải có văn bản trước 12 giờ!” Giờ hành chính làm việc? Giờ Quốc tế hay 12 giờ trong 24 giờ một ngày? Đúng ra phải ghi “công dân phải có văn bản trước giờ làm việc 12 tiếng đồng hồ” mới không bị lợi dụng.
Thấy rất rõ tình hình, vội chạy lên báo cáo. GĐ cho hội ý khẩn Ban giám đốc. Không ai nghĩ ra giải pháp gì. Mà hôm sau tìm được cuốn ấy thì đã bị bồi thêm vào một đoạn rất dài (35 trang vì ông ta thực hiện việc in nên lợi dụng sơ hở của tác giả và NXB): sẽ gặp nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhờ quốc tế hóa vấn đề này nhân hội nghị các nguyên thủ nói tiếng Pháp sắp họp. Vì cụ Đồng là rể làng Tía - tên chữ là Tử Dương, dân đã gặp lần trước ngày 28/10/1993). Nếu không được sẽ biểu tình, theo quy định của Hiến pháp.
Tôi đành mang mặt mạnh của mình là chữ nghĩa ra để đối phó: “ông hãy “chứng minh bằng văn bản là Trưởng ban liên lạc làng Tía ở Hà Nội, Sở sẽ cấp phép ngay”. Trình GĐ, GĐ OK, cho tôi, TL (thừa lệnh) ký, đóng dấu Sở hẳn hoi. Cho người mang đến tận nhà 37 Lý Nam Đế, có ký nhận. Đơn thứ 2, vẫn nội dung ấy, nhưng với tư cách đại diện cho nhân dân làng Tía. Trả lời: “Làng Tía có chính quyền, Đảng, mặt trận, ông hãy chứng minh bằng văn bản là đại diện cho một trong các hội của mặt trận sẽ cấp ngay”. Chịu cứng!
Đề phòng rủi ro, tôi còn đề nghị GĐ ký Quyết định thu hồi cuốn sách trên trên địa bàn Hà Nội để đặt cuốn sách ấy ra ngoài vòng pháp luật. Ký công văn đề nghị Cục xuất bản ra quyết định thu hồi trên toàn quốc và ký quyết định quy định về việc họp báo trên địa bàn HN, trong đó có nói rõ phải được chủ sở hữu địa điểm họp đồng ý bằng văn bản.
Vụ việc nghiêm trọng đến mức ngày 2/7/1997, Ban Tuyên giáo TW phải có báo cáo nhanh gửi thường trực Bộ Chính trị.
Không phải một người hiểu biết, tư duy logic chặt chẽ như ông thì tôi không thể làm được mấy việc ấy (xem hồi ký Bảy nổi ba chìm NBS, NXB Đà Nẵng, 2022, từ tr 342-345).
5. Đằng sau sự thành công của một người đàn ông là...
Biết ơn bao nhiêu, nói bao nhiêu cũng không hết về cái đa tài, đa năng, đức độ của ông. Mọi người làm việc dưới quyền ông chắc đều đồng thuận cao với tôi. Rằng ông là một GĐ bản lĩnh hơn người, luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu. Mấy vụ đã nói, ông đều trực tiếp chỉ đạo tôi nên mới được việc. Tôi quý trọng, nể phục ông.
Nhưng công đầu là thuộc về người con gái Huế, quê ở ngay thôn Vĩ Dạ, có vẻ đẹp “lá trúc che ngang mặt chữ điền” (Hàn Mạc Tử) - Kiều Duyên - vợ ông, người đã giới thiệu tôi với ông.
Bao nhiêu năm nay, hằng ngày 4-5 lần chị vẫn phải tiêm từ 100-110 đơn vị insulin, đưa tận tay 4-6 viên thuốc huyết áp cho chồng. Cẩn thận trông nom ngày 5-6 bữa ăn, nâng niu giấc ngủ cho chồng như cho con lúc còn thơ dại. Khi anh còn làm việc, hiển nhiên làm thư ký không chuyên cho anh, sắp xếp bản thảo, các phân phổ, tổng phổ các bản giao hưởng nhiều chương của chồng.
Ca khúc nổi tiếng “Ngôi sao Hà Nội” lửng lơ con cá vàng. Gọi là tình yêu của anh với Hà Nội, bộ óc, trái tim, gương mặt của cả nước, là của cả Bắc, Trung, Nam, nhất là miền Nam “tử thưở mang gươm đi mở cõi / ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” cũng đúng. Mà bảo đấy là tình yêu đôi lứa giữa Vĩnh Cát - Kiều Duyên cũng không sai. Bởi chị vừa là hậu phương vững chắc cho anh “chiến đấu” với công việc, với cả những kẻ đố kỵ tị hiềm, với chính mình vừa là nguồn cảm hứng cho anh lao động sáng tạo nghệ thuật.
Người phụ nữ đẹp người đẹp nết theo mẹ tập kết ra Bắc, đi học, học trung cấp, rồi đại học tài chính. Về hưu trên cương vị Trưởng phòng kế hoạch - Tài chính Sở Giáo dục Hà Nội. Từng là Đảng ủy viên Sở, từng được nhiều cấp khen trong đó có bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
Chả thế, anh đã có mấy ca khúc “Tình yêu thuở ấy”, “Nụ hôn đầu”, “Sầu lỡ”. Ở tuổi 89 anh còn viết cho vợ yêu “Ru tình”. Đêm 19/3/2019 tại Nhà hát lớn Hà Nội, đêm thanh nhạc “Ngôi sao Hà Nội” là một minh chứng.
6. Vĩ thanh
PGS, nhạc sĩ Vĩnh Cát sinh năm 1934 tại xứ nhãn lồng Hưng Yên, nhưng sống lâu nhất, nhiều nhất ở Hà Nội, cống hiến tài năng sức lực cho Hà Nội. Huân chương niên hạn chống Pháp hạng 3, chống Mỹ hạng nhì là tất yếu. Nhưng, giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật mà các nhạc sĩ cùng trang lứa với anh đều được, mà anh chưa được là một câu hỏi của nhiều người.
Đoàn TNNT Lưu Hữu Phước có hai người được thành phố Hà Nội đặt tên là Lưu Hữu Phước và Nguyễn Vĩnh Bảo (1936-1967). Vĩnh Bảo là em ruột Vĩnh Cát. Khi cùng hai anh gia nhập Đoàn, tự lấy bí danh là Nguyễn Hy Sinh. Đấy là một tài năng âm nhạc mới hé mở. Khi sang Liên Xô học ở nhạc viện Kiev với Doãn Nho, Ca Lê Thuần, Hồ Bông. Học hết năm thứ nhất anh đã viết bản khí nhạc dành cho piano Cappisio gây tiếng vang trong cả nhạc viện làm nhạc sĩ Doãn Nho (tác giả “Năm anh em trên một chiếc xe tăng”, “Người con gái sông La”… sau này) ngạc nhiên lắm: “Tôi thật sự sửng sốt. Đấy là sáng tạo của một bộ óc bẩm sinh, thiên phú… Chắc chắn còn hứa hẹn những tác phẩm lớn hơn, hay hơn nữa.”
Tốt nghiệp loại ưu về nước thì giặc Mỹ đã gây ra sự kiện 5/8/1964 ở Vịnh Bắc Bộ. Lập tức xin đi B. Lại xin đi nơi đất thép Củ Chi ác liệt nhất để lấy vốn sống làm cảm hứng sáng tạo. Đến khi có lệnh gọi về căn cứ Trung ương cục làm Trưởng đoàn Văn công Giải phóng thì bị máy bay B52 giải thảm.
16 tuổi đoàn, 7 tuổi Đảng, 20 năm phục vụ, vào Hội Nhạc sĩ Việt Nam từ 1960. Ngã xuống mới 31 tuổi đời. Được Chủ tịch nước truy phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Chắc lứa U80, U90, sống ngày Hòa bình mới lặp lại ở miền Bắc không mấy người không biết bài “Nhắn cô mấy điều” thanh niên hồi ấy ai cũng hát: “Này trông! Kìa một cô xinh xinh/ Mắt tươi thắm đang nhìn chúng mình/ Miệng cô cười tươi như đóa hoa/ Chan chứa tình trong lòng chúng ta. Này cô nàng đẹp xinh kia ơi/ Nhắn cô nàng xinh đẹp mấy điều/ Miệng cô nàng đẹp xinh thì có xinh/ Vì lao động thì cô thật đáng khinh/ Sắc tươi thắm nhưng đang dần phai/ Mà không ai đoái hoài”.
Nhân dịp Thủ trưởng Vĩnh Cát của tôi vào tuổi 90 tuổi, tôi viết chúc mừng, nhưng không thể không nhắc đến anh Vĩnh Bảo cũng là để nhớ một thời Lưu Hữu Phước không thể nào quên, nhất là với tư cách Trưởng ban Liên lạc cựu TNNT ở Hà Nội.
NBS
(Thời báo VHNT ngày 30/5/2024)